Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp. Bởi vậy, văn học Việt Nam tiếp cận từ lý thuyết hệ hình chẳng những tránh được một cái nhìn tuyến tính, giản đơn mà còn thấy được sự vận động nội tại, đặc biệt tính liên tục qua những đứt đoạn của nó. Từ một cái nhìn như vậy, tôi muốn nói về phê bình nói chung và phê bình cụ thể qua cuốn sách “Ba chiều cạnh của phê bình” của Hoàng Thị Huế do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành đầu năm 2018.
Phê bình văn học giống như một khối kim tự tháp nhiều mặt, mà ở đây tôi chỉ nói về ba mặt, hoặc ba chiều kích, của nó: phê bình thơ, phê bình văn (xuôi) và phê bình văn hóa. Với phê bình thơ và phê bình văn xuôi thì phụ thuộc rất nhiều vào đặc trưng thể loại của chúng, còn phê bình văn hóa thì là đích đến của cả hai phê bình trên.Ba chiều cạnh này của phê bình tuy không đồng đẳng, nhưng bình đẳng trong mục đích của mình.
Thơ là ngôn ngữ tự quay về với chính bản thân nó.Nghĩa của thơ, vì vậy, nằm ở chính ngôn ngữ, nói khác, ở quan hệ giữa chữ và nghĩa, hay giữa chữ và bóng chữ.Thơ tiền hiện đại thì nghĩa đi trước chữ. Nhà thơ có một ý tưởng rồi thì tìm câu chữ để thể hiện ý tưởng đó.Thơ hiện đại thì, ngược lại, chữ đi trước nghĩa, dĩ nhiên không phải là nghĩa tự vị, nghĩa tiêu dùng. Có chữ trước, rồi bắt các con chữ ấy tiếp xúc với nhau trong mối quan hệ văn bản, thì sẽ phát sinh nghĩa mới. Đó là lý do Mallarmé nói: Tôi không làm thơ với các ý tưởng, tôi làm thơ với những con chữ. Còn Trần Dần, Lê Đạt thì tự gọi mình là "người làm công tác chữ", "người gây sự chữ", hoặc "phu chữ", chữ phu ở đây vừa là phu hồ, phu lục lộ, vừa là phu tử (bậc thầy). Thơ hậu hiện đại là chữ - nghĩa, nghĩa - chữ đuổi bắt nhau như trong trò chơi rồng rắn của tuổi nhỏ.Thơ hậu hiện đại, như vậy, có vẻ chiết trung, nhưng là chiết trung mới, một chiết trung trên cơ sở văn hóa hậu hiện đại.
Về phê bình thơ, tác giả nghiên cứu các nhà Thơ mới tiêu biểu như Nguyễn Bính (Lãng mạn), Bích Khê (Tượng trưng), Hàn Mặc Tử(Siêu thực), (Lãng mạn → Tượng trưng → Siêu thực) một mặt, và Trần Dần, Lê Đạt (Thơ hiện đại chủ nghĩa), một mặt khác, để thấy đây là hai đầu của một hành trình cách tân thơ Việt. Đồng thời, qua đó sự vận động của thể loại thơ: từ thơ luật kiểu mới (thơ 7 chữ, 8 chữ của Thơ mới) đến thơ tự do của Trần Dần, Lê Đạt. Đây cũng chính là quá trình vận động của cái tôi từ đơn ngã sang đa ngã của thơ Việt đương đại. Thế giới nghệ thuật của các nhà thơ này được tác giả nghiên cứu ở tầng sâu nhất của nó “vô thức sáng tạo của người nghệ sĩ”.
Về phê bình văn, tác giả nghiên cứu “truyện ngắn Phan Khôi” để tìm ra một trong những điểm khởi đầu của “tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam”. Sau đó là nghiên cứu những dấu mốc/thành tựu nghệ thuật qua nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, ngôn ngữ trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, rồi từ đó nhân vật trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết “Paris 11 tháng 8” của Thuận, cổ mẫu, biểu tượng, huyền thoại trong “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh, hành trình khám phá bản thể trong tiểu thuyết “Đàn trời” của Cao Duy Sơn. Ở đây, người đọc cũng thấy được đường dây ngầm ẩn mà tác giả giăng mắc từ Phan Khôi qua Nam Cao, Thạch Lam, rồi Nguyễn Xuân Khánh, Cao Duy Sơn, cuối cùng đến Thuận. Đó là con đường hòa nhập thế giới đầy quanh co, ngập ngừng, do dự, thậm chí có lúc, có nơi quay đầu lại của văn xuôi Việt Nam từ tiền hiện đại đến hiện đại.